Ảnh 3D về Hà Nội
Các bạn có thể xem thêm tại: http://www.3dhanoi.com
Các bạn có thể xem thêm tại: http://www.3dhanoi.com
Người gửi:
MD
lúc
12:37:00 CH
3
bài trả lời
Phân loại: Lịch sử - Văn hóa - Xã hội
Người gửi:
MD
lúc
10:11:00 CH
0
bài trả lời
Phân loại: Tin tức
Nội dung của bài viết này nói về các loại virus đang tràn ngập mạng Yahoo Messenger hiện nay (mà tôi KHÔNG phải là một nạn nhân ), từ cách chúng gửi tin nhắn giới thiệu tới bạn, cho tới cách xâm nhập vào máy tính, các tác hại và cách diệt cũng như cách phòng tránh.
1. Phương thức lây nhiễm:
Có thể nói là virus này có cách lây nhiễm khá đơn giản & rất hiệu quả, chỉ dùng các thao tác bàn phím để gửi tin nhắn (nội dung do hacker lập trước) từ máy người bị nhiễm qua Yahoo gửi tới toàn bộ danh sách người quen của họ. Tất cả những việc này đều được thực hiện một cách tự động và không thông qua sự cho phép của người sử dụng, cho nên rất khó có thể phát hiện nếu không được người khác (người mình gửi tin nhắn lây nhiễm tới) báo lại.
Cụ thể hơn, những lệnh đó sẽ có dạng như sau:
(Nếu đang sử dụng Yahoo Messenger) + Nhấn CTRL + M (để vào mục nhắn tin) + Nhấn Home (để lên trên cùng) + Nhấn Shift + Xuống cho tới hết danh sách + Nhấn Enter chọn danh sách đó. + Điền nội dung tin nhắn (đã được lập trình trước, ví dụ "Ai dê vào đây xem này: http://abc.abc.abc" ) + Nhấn Enter một lần nữa để gửi đi (Lặp lại vài tiếng/lần) |
Người gửi:
MD
lúc
6:31:00 CH
0
bài trả lời
Phân loại: Máy tính nói chung
Tôi viết bài này nhằm mục đích: cung cấp cho mọi người một số thông tin cơ bản về cách thức hoạt động của malware (phần mềm phá hoại - tên gọi chung của virus, spyware, adware, keylogger,v.v.), và những phương pháp mà nếu áp dụng thì trong 95% trường hợp sẽ giữ cho máy của bạn luôn sạch bóng vết nhơ. Tôi đã áp dụng những biện pháp này, và từ hồi mua máy đến giờ tôi chưa bị dính virus một lần (adware thì có, nhưng tôi sẽ nói về việc này sau), hoặc giả là có và tôi không phát hiện ra được, thì con virus đó cũng chưa làm gì để phá hoại hệ thống của tôi, và những người mà tôi trao đổi dữ liệu qua máy tính cả.
Xin lưu ý rằng: việc bảo vệ một máy tính cá nhân không khó như nhiều người tưởng, thậm chí là dễ hơn rất nhiều (bảo vệ một mạng máy tính lại là một chuyện hoàn toàn khác, tất nhiên), nhưng không dễ đến mức nhắm mắt cũng làm được (như nhiều người hay cởi trần tắm mưa vẫn tưởng).
Yêu cầu máy tính: cần ít nhất 256 MB RAM, đủ để chạy firewall, đây là yêu cầu tối thiểu của một hệ thống bảo mật, đừng tiếc tiền, và đừng nói với tôi là bạn đủ tiền trả dịch vụ internet mỗi tháng, mà lại không đủ để trang bị một thanh RAM nhé.
Còn bây giờ là phần chính của bài viết:
1. Những thông tin (rất) cơ bản về malware
- Virus: loại malware phổ biến nhất, gây nhiều thiệt hại về dữ liệu nhất, có thể chiếm quyền máy của nạn nhân, biến nó thành máy zombie chịu lệnh của hacker.
- Spyware: chương trình gián điệp, thu thập các thông tin của nạn nhân và gửi cho hacker, các thông tin này có thể là hệ điều hành, phần mềm cài đặt tới thông tin cá nhân, địa chỉ, nơi làm việc, số điện thoại, bạn bè, v.v.
Hình minh hoạ spyware (tại wikipedia.org )
Người gửi:
MD
lúc
6:31:00 CH
2
bài trả lời
Phân loại: Máy tính nói chung
Theo Scott Spanbauer (PC World)
Như chúng ta đã biết, Windows XP, nếu không có các bản sửa lỗi cần thiết thì rất dễ bị nhiễm các phần mềm có hại và có thể bị chết chỉ sau một vài phút kết nối Internet (mở ngoặc: rất nhiều người dùng ở Việt Nam lại không biết điều này). Nhưng ngay cả khi đã cài đặt các bản sửa lỗi rồi, Windows vẫn có thể bị dính virus và spyware, vì vậy cho nên chúng ta vẫn phải dùng thêm các phần mềm bảo vệ của các hãng khác nữa. Còn Linux thì khác, hệ điều hành này đã nổi tiếng từ lâu vì khả năng chống chọi các cuộc xâm nhập từ Internet. Nhưng nó có thật sự miễn nhiễm đối với các lỗ hổng đe doạ Windows hay không?
Câu trả lời luôn là có.
Tất nhiên là thỉnh thoảng cũng có một vài chương trình được viết ra để phá hoại hệ thống của Linux. Nhưng trừ khi bạn quá bất cẩn, còn không thì những con sâu đó sẽ không thể làm hại máy tính của bạn được, vì những lý do mà tôi sẽ bàn tới sau. Tuy vậy, để chắc chắn hơn, bạn cũng cần phải áp dụng một số biện pháp để bảo đảm rằng hệ thống của mình hoàn toàn bảo mật.
Chiếc "bàn" bị lật
Lý do thứ nhất làm cho hệ điều hành Linux bảo mật: trong những phiên bản kernel gần đây (2.4 trở lên) có kèm theo một công cụ tường lửa gọi là “iptables”, chức năng của nó là mặc định cản tất cả các kết nối đến máy tính của bạn. Nếu có một ai đó tìm cách truy nhập máy tính của bạn không xin phép thì tường lửa này sẽ gạt đi yêu cầu của họ, họ sẽ không thể nào biết được là liệu có hệ thống máy tính nào tồn tại ở địa chỉ truy nhập hay không.
Nếu bạn không sử dụng thư điện tử, web, ftp, hoặc dịch vụ mạng nào của Linux thì bạn sẽ không phải điều chỉnh chế độ mặc định của iptables. Còn nếu có, thì bạn sẽ phải thay đổi một số lựa chọn trước khi có thể làm được những điều đó.
Ở Ubuntu 6.06 (là hệ điều hành mà tôi đang sử dụng), bạn có thể thay đổi điều này một cách khá đơn giản với chương trình Firestarter. Bạn có thể download chương trình này bằng lệnh:
sudo apt-get install firestarter
Sau đó bạn chạy chương trình (Applications > Internet > Firestarter hoặc System > Administration > Firestarter đều được, bạn cần nhập mật khẩu sudo hoặc root), sẽ hiện ra một bảng như sau:
(một góc được bôi đen vì lý do bảo mật)
Ở mục Status là các thông tin cơ bản về kết nối như tốc độ trao đổi dữ liệu, lượng dữ liệu đã trao đổi (lên + xuống), các kết nối bị chặn, v.v.
Ở mục Event là thông tin chi tiết về các kết nối bị chặn.
Mục Policy là phần quan trọng nhất của chương trình, cho phép bạn thay đổi hoạt động của tường lửa, đặt ra các giới hạn kết nối mới, có 2 phần là Inbound traffic policy (quản lý kết nối đi vào, gọi tắt là Itp) và Outbound traffic policy (kết nối đi ra, tắt Otp).
Itp mặc định từ chối tất cả các kết nối từ ngoài vào máy của bạn, nếu bạn muốn chia sẻ dữ liệu với ai đó thì hãy cho phép IP Address của họ, hoặc mở một cổng (port) cho kết nối của họ vào. Còn Otp thì có 2 lựa chọn: cho phép tất cả các kết nối trừ ngoại lệ (nếu bạn không biết nhiều về port của các chương trình thì nên chọn cái này) và lựa chọn 2 là chặn tất cả các kết nối trừ ngoại lệ (bảo mật hơn, nhưng rất khó chịu nếu chưa quen), cũng cần lưu ý là nếu bạn làm cách này thì sẽ không thể sử dụng được các chương trình P2P (mấy cái này thì cần mở càng nhiều cổng càng tốt, nói chung là mặt hại/khó chịu nhiều hơn lợi).
Một số chương trình khác để điều chỉnh iptables là Guarddog (cho các Linux dùng môi trường KDE, ví dụ như Kubuntu, SUSE), vào Control Panel của router, hoặc dùng lệnh của console để điều chỉnh iptables/netfilter (các bạn có thể đọc hướng dẫn tại đây).
Chương trình diệt virus – không phải chỉ dành riêng cho Windows
Một lý do nữa mà Linux thường vô hiệu được các spyware: theo chế độ mặc định, hầu hết các hệ điều hành Linux đều chỉ tạo cho bạn một tài khoản có quyền giới hạn (limited user). Với tài khoản này thì kể cả khi bạn bị nhiễm virus chúng cũng không thể nào chiếm quyền điều khiển máy và phá huỷ hệ điều hành của bạn được, bởi vì chỉ có tài khoản root/admin mới có quyền tạo ra những thay đổi quan trọng tới hệ thống mà thôi. Ngược lại, tài khoản mặc định của người dùng Windows XP là admin, cho nên một khi virus đã xâm nhập được vào máy của họ rồi thì nó có thể làm được rất nhiều thứ, xoá bỏ hoặc thay đổi nội dung của các file quan trọng là một trong những thứ đó.
Tóm lại, chỉ đơn giản bằng việc sử dụng firewall và không dùng tài khoản root để làm những công việc đơn giản (như lướt web hoặc sử dụng thư điện tử), bạn đã tránh được hầu hết các mối nguy hiểm mà Internet đem lại. Hãy làm giảm khả năng này thêm nữa bằng việc thường xuyên cập nhật các phần mềm cho Linux, những bản vá này sẽ vá đi những lỗ hổng của chương trình mà qua đó malware có thể xâm nhập vào máy của bạn.
Tuy nhiên, nếu chẳng may một ai đó, vì một lý do nào đó (ngu) lại đăng nhập với quyền root, rồi chạy một chương trình bị nhiễm virus, thì con virus đó rất có khả năng sẽ phá huỷ hoặc ăn cắp được dữ liệu của bạn. Và kể cả khi bạn tự cho mình là thông minh, biết cách tránh lây nhiễm malware, thì những dữ liệu được chuyển qua hòm thư của bạn, hoặc dịch vụ chia sẻ dữ liệu, hay gì đó cũng có thể chứa virus để phá hoại máy của những người có liên lạc với bạn. Vì những lý do này mà bạn rất cần phải có một chương trình diệt virus cho Linux trong máy tính của mình.
Trước khi bạn bỏ tiền ra mua một chương trình diệt virus cho Linux nào đó, hãy nên thử qua một số phần mềm miễn phí đã, hay thậm chí, hãy thử một chương trình vừa miễn phí lại vừa mã nguồn mở nữa: Clam Antivirus. Ngoài những phiên bản dạng binary (tương đương setup của Windows, người dùng không phải tự biên dịch mã nguồn), ClamAV còn có bản dành cho Windows và Mac OS X.
Ngoài ClamAV, bạn cũng có thể sử dụng một số chương trình diệt virus khác như avast! Antivirus, AVG Antivirus, BitDefender Antivirus. Nhờ chức năng bảo mật sẵn có của Linux mà bạn có thể không cần dùng những phần mềm này để bảo vệ chính mình, nhưng bạn sẽ cần nó để hạn chế tầm ảnh hưởng của malware trên thế giới.
Người gửi:
MD
lúc
6:28:00 CH
0
bài trả lời
Phân loại: Linux và mã nguồn mở, Máy tính nói chung
Nếu như vài năm trước đây chúng ta không có nhiều điều để nói về RAM bởi đa số các hệ thống đều được trang bị SDRAM với tốc độ từ 66MHz tới 133MHz thì trong khoảng thời gian ngắn trở lại đây, đã xuất hiện khá nhiều chủng loại bộ nhớ mới như DDR SDRAM, Rambus RDRAM, DDR-II SDRAM... khiến người dùng 'hoa cả mắt' khi chọn lựa
Trong những năm qua, người dùng đã chứng kiến sự thay đổi nhanh chóng của hệ thống máy tính để bàn. Hai dòng CPU chính của Intel và AMD thay đổi liên tục không chỉ về tốc độ (từ vài trăm MHz lên tới hàng GHz) mà còn cả giao tiếp (Intel: Socket 370/ 423/ 478 /775, AMD: Slot A, Socket 462-A/ 754 /940/ 939...) và dĩ nhiên chúng kéo theo sự thay đổi của bo mạch chủ và nhiều thành phần khác. Một trong những thành phần chịu ảnh hưởng lớn nhất là bộ nhớ hệ thống (RAM). Bài viết này sẽ giúp các bạn hiểu rõ hơn về những khái niệm của bộ nhớ RAM máy tính kèm theo một số thông tin bổ ích khác. Tuy nhiên chúng ta sẽ tập trung vào bộ nhớ DDR và DDR2 vì hiện tại, chúng là loại thống trị trên thị trường. SDRAM đã quá cũ còn RDRAM thì giá quá cao mà chỉ được dùng trong một số máy tính Pentium 4 đời đầu.
1. KHÁI NIÊM CƠ BẢN VỀ RAM
Tên gọi
Hiện nay nhiều người thường nhầm lẫn về cách gọi tên của các loại RAM. Nếu như RDRAM không có gì để nói thì với dòng SDRAM, việc nhầm lẫn ngày càng lớn. Khái niệm RAM (Random Access Memory) thì chắc hẳn ai cũng biết. DRAM hay SDRAM là khái niệm mở rộng hơn (Synchronous Dynamic Random Access Memory - RAM đồng bộ). Ban đầu và thậm chí hiện nay khi nói đến SDRAM người ta thường nghĩ ngay đến RAM loại cũ với tốc độ 100MHz hay 133MHz; tuy nhiên từ sau khi DDR SDRAM (Double Data Rate SDRAM) ra đời thì quan niệm này hoàn toàn sai. Tham khảo một vài bảng báo giá linh kiện, bạn sẽ thấy các công ty đã góp phần không nhỏ vào việc khiến người dùng hiểu sai vấn đề. SDRAM là tên gọi chung của một dòng bộ nhớ máy tính, nó được phân ra SDR (Single Data Rate) và DDR (Double Data Rate). Do đó nếu gọi một cách chính xác, chúng ta sẽ có hai loại RAM chính là SDR SDRAM và DDR SDRAM. Cấu trúc của hai loại RAM này tương đối giống nhau, nhưng DDR có khả năng truyền dữ liệu ở cả hai điểm lên và xuống của tín hiệu nên tốc độ nhanh gấp đôi. Trong thời gian gần đây xuất hiện chuẩn RAM mới dựa trên nền tảng DDR là DDR-II, DDR-II có tốc độ cao hơn nhờ cải tiến thiết kế.
Tốc độ (Speed)
Đây có lẽ là khái niệm được người dùng quan tâm nhất, tuy nhiên có người thắc mắc về cách gọi tên, đối với DDR thì có hai cách gọi theo tốc độ MHz hoặc theo băng thông. Ví dụ, khi nói DDR333 tức là thanh RAM đó mặc định hoạt động ở tốc độ 333MHz nhưng cách gọi PC2700 thì lại nói về băng thông RAM, tức là khi chạy ở tốc độ 333MHz thì nó sẽ đạt băng thông là 2700MB/s (trên lý thuyết). Tương ứng như thế chúng ta sẽ có bảng sau:
Thường ở Việt Nam thông dụng các loại RAM có bus 333 và 400, những loại có bus cao hơn thường xuất hiện ở những loại cao cấp như Kingston HyperX, Corsair , Mushkin LV nhưng nói chung khá hiếm.
Độ trễ (Latency)
CAS Latency là khái niệm mà người dùng thắc mắc nhiều nhất. Trước đây, khi đi mua RAM, người mua thường chỉ quan tâm tới tốc độ hoạt động như 100MHz hay 133MHz nhưng gần đây, khái niệm CAS đang dần được người dùng để ý bởi nó đóng vai trò khá quan trọng vào tốc độ xử lý tổng thể của hệ thống; đặc biệt trong ép xung. Vậy CAS là gì?
CAS là viết tắt của 'Column Address Strobe' (địa chỉ cột). Một thanh DRAM được coi như một ma trận của các ô nhớ (bạn có thể hình dung như một bảng tính excel với nhiều ô trống) và dĩ nhiên mỗi ô nhớ sẽ có toạ độ (ngang, dọc). Như vậy bạn có thể đoán ngay ra khái niệm RAS (Row Adress Strobe)là địa chỉ hàng nhưng do nguyên lý hoạt động của DRAM là truyền dữ liệu xuống chân nên RAS thường không quan trọng bằng CAS.
Khái niệm độ trễ biểu thị quãng thời gian bạn phải chờ trước khi nhận được thứ mình cần. Theo từ điển Merriam-Webster thì latency có nghĩa là 'khoảng thời gian từ khi ra lệnh đến khi nhận được sự phản hồi'. Vậy CAS sẽ làm việc như thế nào? CAS Latency có ý nghĩa gì?
Để hiểu khái niệm này, chúng ta sẽ cùng điểm nhanh qua cách thức bộ nhớ làm việc, đầu tiên chipset sẽ truy cập vào hàng ngang (ROW) của ma trận bộ nhớ thông qua việc đưa địa chỉ vào chân nhớ (chân RAM) rồi kích hoạt tín hiệu RAS. Chúng ta sẽ phải chờ khoảng vài xung nhịp hệ thống (RAS to CAS Delay) trước khi địa chỉ cột được đặt vào chân nhớ và tín hiệu CAS phát ra. Sau khi tín hiệu CAS phát đi, chúng ta tiếp tục phải chờ một khoảng thời gian nữa (đây chính là CAS Latency) thì dữ liệu sẽ được tìm thấy. Điều đó cũng có nghĩa là với CAS 2, chipset phải chờ 2 xung nhịp trước khi lấy được dữ liệu và với CAS3, thời gian chờ sẽ là 3 xung nhịp hệ thống.
Bạn sẽ thắc mắc như vậy phải chăng CAS2 nhanh hơn CAS3 tới 33%, không đến mức như vậy bởi có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu năng tổng thể của bộ nhớ điển hình như:
+ Chuỗi xử lý thông tin: kích hoạt RAS, chờ khoảng thời gian trễ RAS-to-CAS Delay và CAS Latency.
+ Truy cập bộ nhớ theo chuỗi: đôi khi chipset sẽ đọc dữ liệu trong bộ nhớ RAM theo chuỗi (burst) như vậy rất nhiều dữ liệu sẽ được chuyển đi một lần và tín hiệu CAS chỉ được kích hoạt một lần ở đầu chuỗi.
+ Bộ vi xử lý có bộ đệm khá lớn nên chứa nhiều lệnh truy cập và dữ liệu; do đó thông tin được tìm kiếm trên bộ đệm trước khi truy cập vào RAM và tần số dữ liệu cần được tìm thấy trên bộ đệm (hit-rate) khá cao (vào khoảng 95%).
Nói tóm lại việc chuyển từ CAS 3 sang CAS 2 sẽ tăng hiệu năng xử lý cho tất cả các ứng dụng. Những chương trình phụ thuộc vào bộ nhớ như game hay ứng dụng đồ họa sẽ chạy nhanh hơn. Điều này đồng nghĩa với việc những thanh RAM được đóng dấu CAS2 chắc chắn chạy nhanh hơn những thanh RAM CAS3. Nếu bạn dự định mua đồ chơi cho một cuộc đua ép xung hay đơn giản chỉ cần hệ thống đạt tốc độ tối ưu, hãy chọn RAM CAS2 nhưng nếu chỉ là công việc văn phòng, CAS 3 hoàn toàn vẫn đáp ứng yêu cầu.
Gọi tên theo băng thông | Gọi tên theo tốc độ MHz |
PC1600 | DDR200 |
PC2100 | DDR266 |
PC2700 | DDR333 |
PC3000 | DDR366 |
PC3200 | DDR400 |
PC3500 | DDR433 |
PC3700 | DDR466 |
PC4000 | DDR500 |
PC4200 | DDR533 |
PC4400 | DDR550 |
PC4800 | DDR600 |
Người gửi:
MD
lúc
4:10:00 CH
0
bài trả lời
Phân loại: Máy tính nói chung